K-329 Belgorod là lớp tàu ngầm hạt nhân xuyên lục địa được chế tạo theo Dự án 09852 cho Hải quân Nga. Tàu do Sevmash, một công ty đóng tàu thuộc tập đoàn United Shipbuilding (USC) của Nga, chế tạo.
Belgorod có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như tấn công hạt nhân, nghiên cứu, thử nghiệm thiết bị nghiên cứu mới, và cứu hộ cứu nạn. Tàu ngầm này đã thực hiện thành công một loạt vụ phóng thử nghiệm ngư lôi Poseidon vào tháng 1 năm ngoái. Các cuộc thử nghiệm đã chứng minh được hiệu suất của tàu ngầm ở các độ sâu khác nhau.
K-329 Belgorod là lớp tàu ngầm hạt nhân xuyên lục địa do Sevmash, một công ty đóng tàu thuộc tập đoàn United Shipbuilding (USC) của Nga, chế tạo. Ảnh: Military Leak
Thiết kế của Belgorod dựa trên tàu ngầm lớp Oscar II. Tàu có chiều dài 184m, rộng 18,2m và có lượng giãn nước hơn 14.700 tấn khi nổi và 24.000 tấn khi lặn. Nó có thể lặn tới độ sâu 520m và hoạt động dưới nước khoảng 4 tháng.
Theo nhà sản xuất, Belgorod có thể mang theo trạm hạt nhân nước sâu AS-15 và các tàu ngầm nhỏ chạy bằng năng lượng hạt nhân để tiến hành các hoạt động bí mật dưới biển sâu. Belgorod hoạt động bằng hai lò phản ứng nước điều áp có công suất gần 255.000 mã lực, do đó tàu có thể đạt vận tốc tối đa hơn 59km/giờ.
Belgorod được trang bị 6 ngư lôi hạt nhân Poseidon cùng 6 ống phóng ngư lôi 533mm. Poseidon là loại ngư lôi tự động mang đầu đạn hạt nhân có đương lượng nổ 100Mt, chạy bằng năng lượng từ lò phản ứng hạt nhân. Ngư lôi này có chiều dài ước tính 24m và đường kính 1,6m. Nó có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 1.000m và có khả năng hoạt động 10.000km và hoạt động liên tục khoảng 100 giờ. Đây là ngư lôi lớn nhất thế giới và là một vũ khí chiến lược có thể tấn công các căn cứ hải quân và các thành phố ven biển.
Tàu ngầm K-329 Belgorod dự kiến sẽ được đưa vào phục vụ lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Thái Bình Dương Nga trong năm 2025.
Dàn tàu ngầm hạt nhân là một bộ phận quan trọng tạo nên sức mạnh của lực lượng hạt nhân chiến lược Mỹ.
Hơn 50% trong tổng số 1.744 vũ khí hạt nhân của Mỹ đang được lắp đặt trên các tàu ngầm tên lửa. Đây là các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) lớp Ohio do công ty General Dynamics Electric Boat sản xuất.Được chế tạo trong giai đoạn 1976 – 1997 và đưa vào hoạt động trong suốt những năm 1980 và 1990, 14 chiếc SSBN lớp Ohio của Hải quân là toàn bộ thành phần trên biển trong lực lượng răn đe hạt nhân của Mỹ. Mỗi chiếc SSBN được trang bị tới 24 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) Trident II, với mỗi tên lửa có khả năng mang đầu đạn hạt nhân sử dụng công nghệ đa đầu đạn phân hướng tấn công nhiều mục tiêu độc lập (MIRV).
Những MIRV này mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá từ 5 – 7 kiloton (tương đương 5 – 7 tấn thuốc nổ TNT) đến 475 kiloton, đủ để san phẳng một khu vực đô thị lớn.
Mỗi tên lửa Trident mang từ 1 – 14 đầu đạn, đồng nghĩa, một tàu ngầm lớp Ohio có thể chứa tới 336 quả bom hạt nhân, đủ sức tàn phá bất kỳ quốc gia nào trên Trái đất.
Một tàu ngầm lớp Ohio đang được đóng tại xưởng Puget Sound. Ảnh: US Defense News
Số lượng tàu ngầm mang tên lửa hành trình
Hải quân Mỹ đang vận hành 4 tàu ngầm mang tên lửa hành trình (SSGN). Đây là các tàu SSBN lớp Ohio được chuyển đổi thành SSGN vào những năm 2000, sử dụng hệ thống phóng thẳng đứng cho phép chúng mang theo hàng chục tên lửa hành trình Tomahawk.
Mỗi ống phóng trong số 22 ống phóng của mỗi tàu ngầm hoán cải chứa tới 7 quả Tomahawk, tức tổng cộng 154 tên lửa hành trình. Trong đó, các tên lửa Tomahawk có thể được trang bị cả đầu đạn thông thường và đầu đạn hạt nhân với sức công phá từ 5 – 150 kiloton.
SSGN cũng có thể chuyên chở các quân nhân tham gia những sứ mệnh đặc biệt, bí mật ở các bờ biển xa.
Tàu ngầm tấn công hạt nhân USS Tucson của Hải quân Mỹ. Ảnh: Reuters
Dàn tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân
Theo Sputnik, Mỹ hiện sở hữu hơn 50 tàu ngầm tấn công nhanh, đều vận hành nhờ các lò phản ứng hạt nhân. Chúng bao gồm 29 tàu ngầm lớp Los Angeles, chế tạo từ đầu những năm 1970 – 1996, được trang bị ngư lôi Mk 48, tên lửa chống hạm Harpoon và tên lửa tấn công mặt đất Tomahawk; 22 tàu ngầm lớp Virginia mới hơn, bắt đầu biên chế hoạt động giữa những năm 2000 và 3 tàu thuộc lớp Seawolf, trị giá 3 tỷ USD cũng được trang bị cùng loại vũ khí.
Kế hoạch phát triển
Bộ Quốc phòng Mỹ được phân bổ gần 100 triệu USD trong ngân sách năm 2022 cho việc nghiên cứu – phát triển tàu ngầm tấn công hạt nhân thế hệ tiếp theo. Lầu Năm Góc đã yêu cầu bổ sung 237 triệu USD cho chương trình SSN(X) này trong năm tài khóa 2023.
Cho đến nay, nhà chức trách rất kín tiếng về hình dáng hoặc các tính năng của tàu ngầm mới, ngoại trừ hứa hẹn nó sẽ cải thiện tốc độ và các đặc tính tàng hình, “đồng thời mang theo một kho vũ khí lớn hơn cùng tải trọng đa dạng” so với các tàu ngầm trước đó.
Việc đóng các tàu thuộc dự án SSN(X) dự kiến bắt đầu vào đầu những năm 2030, với những chiếc đầu tiên sẽ đi vào hoạt động trong năm 2043.
Với các tàu ngầm mang tên lửa, việc chế tạo lớp Columbia thay thế lớp Ohio đã được xúc tiến. Mỗi tàu ngầm mới trị giá 9,15 tỷ USD, mang theo 16 tên lửa Trident II sẽ bắt đầu thay thế các tàu lớp Ohio vào cuối những năm 2020.
Mỹ dự kiến sẽ trang bị tổng cộng 12 tàu ngầm lớp Columbia cho lực lượng hải quân nước này.Triết lý sử dụng sức mạnh hạt nhân của Mỹ
Cuối tháng 10 năm nay, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã công bố bản cập nhật được chờ đợi từ lâu cho học thuyết hạt nhân của Mỹ. Bản Đánh giá tình hình hạt nhân năm 2022 tiếp tục cho phép Mỹ dùng vũ khí hạt nhân tấn công phủ đầu khi xuất hiện “mức độ rủi ro không thể chấp nhận được” của việc các đối thủ gây ra “thiệt hại cấp chiến lược” cho Mỹ cũng như các đồng minh, đối tác nếu Washington từ chối sử dụng hạt nhân trước.
Washington cam kết sẽ chỉ sử dụng vũ khí hạt nhân trong “các trường hợp cực kỳ nghiêm trọng” để bảo vệ lợi ích quốc gia của Mỹ. Tuy nhiên, họ nêu rõ “vẫn còn một số ít tình huống mà vũ khí hạt nhân của Mỹ có thể đóng vai trò ngăn chặn các cuộc tấn công có tác động chiến lược”.
(VTC News) – DF-41 được cho là tên lửa đạn đạo liên lục địa tiên tiến nhất trong kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, với tầm bắn xa và mang nhiều đầu đạn.
Trung Quốc một lần nữa khiến thế giới đổ dồn sự chú ý vào những tiến bộ trong chương trình tên lửa của nước này, khi thử nghiệm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) bên ngoài không phận lần đầu tiên sau 44 năm vào tháng trước.
Tên lửa sử dụng trong cuộc thử nghiệm này được cho là DF-31AG, một biến thể của vũ khí thế hệ thứ ba cách đây khoảng hai thập kỷ. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc đã phát triển mẫu ICBM tiên tiến hơn, DF-41 thế hệ thứ tư, có thể bay xa và mang nhiều đầu đạn hơn.
Hình ảnh vụ phóng tên lửa ICBM đầu tiên sau 44 năm của Trung Quốc, ngày 25/9. (Ảnh: SCMP)
‘Lai lịch’ DF-41
DF-41 được phóng vào năm 2017, thuộc dòng tên lửa đạn đạo đất đối đất Dongfeng (Đông Phong).
Đông Phong có nghĩa là “gió đông”, xuất phát từ bài phát biểu của Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông năm 1957 sau khi Liên Xô chuyển giao tên lửa đạn đạo R-2 để giúp Trung Quốc phát triển chương trình của mình. “Hiện nay trên thế giới có hai luồng gió: gió đông và gió tây”, ông Mao nói.
Bắt đầu phát triển vào tháng 7/1986, nguyên mẫu của DF-41 thử nghiệm vào năm 1994 và chuyển giao vào năm 2010 cho Quân đoàn Pháo binh số 2, lực lượng giám sát tên lửa thông thường và hạt nhân của Trung Quốc trước khi chuyển đổi thành Lực lượng Tên lửa vào năm 2016.
Giới quan sát ước tính DF-41 trải qua 6 – 8 cuộc thử nghiệm từ năm 2012 – 2016. Cuộc thử nghiệm đầu tiên diễn ra vào năm 2012 nhưng không thông tin chi tiết nào được tiết lộ.
Vụ thử thứ hai vào năm 2013, DF-41 bay từ trung tâm phóng tên lửa Wuzhai ở tỉnh Thiểm Tây đến mục tiêu thử nghiệm ở miền tây Trung Quốc. Các cuộc thử nghiệm sau đó tập trung vào những công nghệ cụ thể cho tên lửa, chẳng hạn như phương tiện tái nhập mục tiêu độc lập (MIRV).
Hình ảnh ICBM DF-41 trong cuộc duyệt binh mừng 70 năm Quốc khánh Trung Quốc, ngày 1/10/2019. (Ảnh: Tân Hoa Xã)
Sau nhiều thập kỷ phát triển và thử nghiệm, DF-41 lần đầu tiên xuất hiện công khai trong lễ duyệt binh ngày 1/10/2019, kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Việc sản xuất có thể bắt đầu vào cùng năm. Hình ảnh vệ tinh do Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ chụp vào tháng 4 và tháng 5/2019 cho thấy 18 bệ phóng di động cho tên lửa DF-41 tại địa điểm huấn luyện tên lửa gần Jilantai ở Nội Mông, phía bắc Trung Quốc.
Thông số kỹ thuật
Sau DF-31, DF-41 là ICBM thứ hai của Trung Quốc sử dụng nhiên liệu rắn. Những loại vũ khí như vậy không cần phải nạp nhiên liệu ngay trước khi phóng và yêu cầu ít hỗ trợ hậu cần hơn, giúp chúng khó bị phát hiện và có khả năng sống sót cao hơn trong các cuộc tấn công phủ đầu so với vũ khí sử dụng nhiên liệu lỏng, vốn cần thời gian chuẩn bị dài hơn.
Tên lửa DF-41 sử dụng động cơ nhiên liệu rắn ba giai đoạn để đạt tầm bắn từ 12.000 – 15.000 km, đủ khả năng bao phủ toàn bộ lục địa nước Mỹ, với tốc độ lên tới Mach 25.
Công nghệ MIRV áp dụng trên DF-41 cho phép tên lửa mang theo mang theo nhiều đầu đạn, mỗi đầu đạn có khả năng tấn công các mục tiêu khác nhau.
Truyền thông Trung Quốc tuyên bố DF-41 có thể mang tới 10 đầu đạn MIRV với tổng trọng lượng 2.500 kg. Tuy nhiên, giới chuyên gia ước tính tên lửa có thể mang khoảng ba đầu đạn, cùng với các tải trọng bổ sung có thể được dùng làm mồi nhử và những phương tiện hỗ trợ xuyên thủng để vượt qua hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ.
Có ba phiên bản DF-41 đang được sử dụng hoặc phát triển: di động trên đường bộ, di động trên đường sắt và hầm phóng (silo).
Phiên bản di động trên đường bộ được phóng từ bệ phóng di động tám trục, cho phép di chuyển qua nhiều loại địa hình và phóng từ các khu vực xa xôi. Điều này giúp hệ thống có thể triển khai đến nhiều vị trí ẩn nấp, giảm thiểu khả năng bị tấn công.
Ngoài ra, Trung Quốc được cho là đang thử nghiệm phiên bản DF-41 di động trên đường sắt, có khả năng linh hoạt về vị trí; các đoàn tàu có thể được ngụy trang thành tàu chở khách di chuyển với tốc độ cao, đồng thời sử dụng đường hầm để tránh bị vệ tinh phát hiện.
Bắc Kinh cũng có thể đang phát triển phiên bản DF-41 đặt trong hầm phóng. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc bắt đầu xây dựng nhiều hầm phóng kích thước phù hợp với DF-41 từ năm 2018, với ít nhất 16 hầm đang được xây dựng tại khu huấn luyện Jilantai tính đến năm 2021.
Hình ảnh vệ tinh từ năm 2021 cho thấy các tổ hợp hầm phóng tương tự như khu Jilantai cũng đang được xây dựng tại Yumen ở tỉnh Cam Túc, phía tây bắc Trung Quốc, Hami ở Tân Cương và Ordos ở Nội Mông. Mỗi địa điểm có hơn 100 hầm phóng.
Thông số kỹ thuật tên lửa DF-41. (Nguồn: SCMP)
DF-41 so với ICBM khác
So với ba tên lửa đạn đạo liên lục địa tiền nhiệm là DF-4, DF-5 và DF-31, DF-41 tiên tiến nhất. Mặc dù DF-5 cũng có thể bao phủ toàn bộ lục địa nước Mỹ với tầm bắn từ 13.000 – 16.000 km, nhưng lại sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng thay vì động cơ nhiên liệu rắn.
Trong khi đó, DF-31 sử dụng động cơ nhiên liệu rắn nhưng tầm bắn hoạt động tương đối ngắn, khoảng 7.200 – 8.000 km, và chỉ có thể mang một đầu đạn. Tuy nhiên, các biến thể của nó, DF-31A và DF-31AG, được cho là có tầm bắn lên tới 13.200 km và trang bị công nghệ MIRV, với khoảng ba đến năm đầu đạn.
Tính đến năm nay, ICBM trên mặt đất duy nhất của Washington đang hoạt động là LGM-30G Minuteman III, với khoảng 400 tên lửa được triển khai tại Mỹ. Minuteman III được giới thiệu vào năm 1970 và có các đặc điểm tương tự như DF-41, bao gồm động cơ nhiên liệu rắn ba giai đoạn và tầm hoạt động khoảng 13.000 km.
Đây cũng là ICBM đầu tiên của Mỹ trang bị công nghệ MIRV để mang ba đầu đạn, mặc dù các tên lửa hiện đang hoạt động đã loại bỏ công nghệ MIRV theo một hiệp ước với Nga năm 1993, cấm sử dụng trên ICBM.
Nga có thể đang phát triển RS-28 Sarmat mới để thay thế ICBM R-36M của Liên Xô. RS-28 Sarmat nằm trong danh sách sáu loại vũ khí chiến lược mới được Tổng thống Nga Vladimir Putin công bố vào năm 2018, được cho là có tầm hoạt động xa nhất thế giới lên đến 18.000 km.
Tháng 4/2022, Moskva tiến hành vụ phóng đầu tiên của Sarmat, hai tháng sau khi tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine. Tuy nhiên, vụ thử gần nhất vào tháng 9 thất bại, để lại miệng hố rộng khoảng 60 m tại Sân bay Vũ trụ Plesetsk ở miền bắc Nga.
Hệ thống tên lửa đạn đạo liên lục địa RS-28 Sarmat của Nga. (Ảnh: The Strategist)
Răn đe chiến lược
Cụm từ “răn đe chiến lược” được đề cập trong báo cáo công tác của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 20 năm 2022 và nhắc lại trong hội nghị trung ương lần thứ ba vào đầu năm nay.
Trung Quốc cam kết “tuân thủ nghiêm ngặt chính sách không sử dụng vũ khí hạt nhân trước”, nhấn mạnh lực lượng hạt nhân của họ phát triển để phòng thủ và phản công lại một cuộc tấn công hạt nhân.
Tuy nhiên, Trung Quốc là một trong những nước có kho vũ khí hạt nhân phát triển nhanh nhất trên thế giới. Theo báo cáo của Lầu Năm Góc công bố vào tháng 10 năm ngoái, Lực lượng Tên lửa của quân đội Trung Quốc đang “thúc đẩy các kế hoạch hiện đại hóa dài hạn để tăng cường khả năng ‘răn đe chiến lược’ của mình”, bao gồm phát triển các ICBM mới.
Báo cáo cho biết Trung Quốc đã “tăng gấp đôi và tiếp tục phát triển số lượng bệ phóng tại hầu hết các đơn vị ICBM”. Tính đến năm 2022, cường quốc này có khoảng 350 ICBM, bao gồm DF-31 và DF-41.
Báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm vào tháng 7 năm nay ước tính Trung Quốc bổ sung 90 đầu đạn vào kho vũ khí của mình trong năm 2023 và hiện có tổng cộng khoảng 500 đầu đạn. Báo cáo cũng dự đoán trong vòng 10 năm, số lượng ICBM của Trung Quốc có thể vượt qua cả Nga và Mỹ.
ICBM có khả năng tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc răn đe hạt nhân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khi cả Trung Quốc và Mỹ đều tìm cách tăng cường năng lực hạt nhân của mình.
Washington tuyên bố bắt đầu thay thế toàn bộ các tên lửa Minuteman III của mình từ năm 2029 bằng một loại ICBM mới có tên LGM-35 Sentinel.Hoa Vũ(Nguồn: SCMP)
Việc Mỹ phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) Sentinel đánh dấu bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa kho vũ khí hạt nhân, tăng cường an ninh quốc gia, đồng thời đặt ra câu hỏi về cán cân chiến lược toàn cầu.
Bước tiến quan trọng
Mới đây, Không quân Mỹ và Tập đoàn Northrop Grumman đã tiến hành thành công cuộc thử nghiệm bắn tĩnh quy mô lớn động cơ tên lửa nhiên liệu rắn giai đoạn một của tên lửa ICBM Sentinel mới, tại cơ sở của tập đoàn ở Promontory, bang Utah.
Bài kiểm tra này rất cần thiết để xác thực thiết kế động cơ và đưa chương trình đến gần hơn với sản xuất và triển khai. “Cuộc thử nghiệm gần đây xác nhận tính chính xác của các mô hình kỹ thuật số, cũng như thúc đẩy động cơ tên lửa nhiên liệu rắn giai đoạn một đạt được trình độ đầy đủ, tiếp theo là các cuộc thử nghiệm hỏa lực tĩnh thành công ở giai đoạn thứ hai và thứ ba”, trang mạng airforce-technology.com nêu rõ.
Cuộc thử nghiệm gần đây đưa động cơ tên lửa nhiên liệu rắn giai đoạn một của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Sentinel tiến tới giai đoạn thử nghiệm đầy đủ. Ảnh: US Air Force
Chuẩn tướng William Rogers, người đứng đầu chương trình ICBM Sentinel của Không quân Mỹ, nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc thử nghiệm như một phần của quá trình hiện đại hóa bộ ba hạt nhân của Mỹ.
Theo ông Rogers, cuộc thử nghiệm thành công này là một chỉ báo rõ ràng về sự tiến bộ, báo hiệu rằng Không quân đang có những bước đi nhằm triển khai một hệ thống răn đe chiến lược đáng tin cậy. Chương trình ICBM Sentinel có mục đích tăng cường thành phần trên bộ của bộ ba hạt nhân Mỹ, một sự cân bằng quan trọng để duy trì khả năng răn đe.
Các chuyên gia từ Trung tâm Vũ khí Hạt nhân Không quân và Northrop Grumman hiện đang phân tích kết quả để xác nhận tính hiệu quả và độ chính xác của cuộc thử nghiệm này.
ICBM Sentinel, có tên gọi chính thức là LGM-35A, là tên lửa đẩy ba tầng, được kết hợp các vật liệu và công nghệ thiết kế mới. Với tầm bắn hơn 5.500 km, Sentinel được thiết kế để cung cấp khả năng răn đe chiến lược lâu dài.
Sự phát triển của ICBM Sentinel được hỗ trợ bởi các hoạt động bảo trì và đào tạo tại nhiều cơ sở khác nhau, bao gồm cả Căn cứ Không quân Hill ở Utah. Cơ sở hạ tầng hiện có liên quan đến ICBM Minuteman III sẽ được nâng cấp hoặc thay thế khi cần thiết, để đáp ứng các yêu cầu hoạt động của hệ thống vũ khí mới.
Việc hiện đại hóa hệ thống Sentinel phản ánh cam kết của Không quân Mỹ trong việc duy trì khả năng răn đe hạt nhân đáng tin cậy – nền tảng của an ninh quốc gia. Mặc dù chương trình không làm tăng số lượng tên lửa hạt nhân mặt đất trong tình trạng báo động tại Mỹ, nhưng nó bảo đảm rằng các hệ thống này vẫn đi đầu về công nghệ và hiệu quả.
Sự chuyển đổi từ ICBM Minuteman III sang ICBM Sentinel
Theo Báo cáo của Congressional Reasearch Service công bố tháng 2-2025, bộ ba hạt nhân của Mỹ gồm ICBM, tàu ngầm tấn công hạt nhân (SSBN) và máy bay ném bom chiến lược.
Một ICBM của Mỹ có thể đạt tới mục tiêu trên toàn cầu trong khoảng 30 phút sau khi phóng. Trong ba phút đầu tiên, ba động cơ tên lửa nhiên liệu rắn cung cấp năng lượng chuyến bay của tên lửa. Sau phần bay có động cơ, tên lửa bay theo quỹ đạo parabol hướng tới mục tiêu. Tên lửa phóng đầu đạn trong giai đoạn giữa hành trình của chuyến bay và đầu đạn tiếp tục bay tới mục tiêu.
Mỹ bắt đầu triển khai ICBM có đầu đạn hạt nhân vào năm 1959 và duy trì các hệ thống này “trong tình trạng báo động” hoặc có thể khởi động nhanh chóng. Không quân Mỹ đã thử nghiệm tên lửa ICBM Minuteman III có tầm bắn 13.000km. Mỹ đặt ICBM của mình trong các silo (giếng) bê tông cứng tại các căn cứ ở Bắc Dakota, Montana, Wyoming, Colorado và Nebraska.
Hình minh họa tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Sentinel, biểu tượng cho sự hiện đại hóa khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ. Ảnh: innovant.fr
Một khi Tổng thống Mỹ cho phép phóng tên lửa, ICBM không thể bị thu hồi hoặc phá hủy trong khi bay. Điều tương tự cũng đúng với tên lửa hạt nhân được phóng từ tàu ngầm của Mỹ. Ngược lại, máy bay ném bom chiến lược của Mỹ có thể quay trở lại căn cứ mà không thả vũ khí.
Không quân Mỹ lần đầu tiên triển khai ICBM Minuteman trong những năm 1960. Minuteman III, hiện đang được triển khai trong cấu hình đầu đạn đơn, đã được đưa vào sử dụng từ những năm 1970. Không quân Mỹ đã thay thế và cập nhật nhiều thành phần các hệ thống trên tên lửa Minuteman III – một quá trình được gọi là kéo dài tuổi thọ – nhiều lần trong 50 năm qua. Không quân Mỹ tuyên bố rằng, một số thành phần này có thể phải đối mặt mối quan tâm về độ tin cậy, khi chúng đạt đến ngưỡng tuổi thọ.
Sau khi tiến hành phân tích các phương án thay thế, năm 2014, Không quân Mỹ quyết định thay thế Minuteman III bằng một loại hệ thống tên lửa mới (ban đầu là Hệ thống răn đe hạt nhân chiến lược trên bộ) sẽ phục vụ đến năm 2075. Không quân Mỹ cho rằng, ICBM mới sẽ đáp trả được các mối đe dọa hiện tại và tương lai, duy trì cơ sở công nghiệp, sản xuất hệ thống vũ khí mô-đun và giảm chi phí quay vòng.
Theo trang mạng les-crises.fr, năm 2020, tập đoàn Northrop Grumman đã được Bộ Quốc phòng Mỹ và Không quân Mỹ trao một hợp đồng trị giá 13,3 tỷ USD để thiết kế và sản xuất tên lửa ICBM Sentinel, nhằm thay thế kho vũ khí hiện tại gồm 500 tên lửa Minuteman III. Vào thời điểm đó, Lầu Năm Góc ước tính tổng chi phí cho chương trình ICBM Sentinel thế hệ tiếp theo, bao gồm nhiều thập kỷ hoạt động và hỗ trợ, có thể là 264 tỷ USD.
Không quân Mỹ và Northrop Grumman dự kiến sẽ đưa ICBM Sentinel thay thế Minuteman III từ năm 2029, với thời gian hoạt động kéo dài đến năm 2075.
Tháng 10-2023, Tổng thống Vladimir Putin tiết lộ Nga đang sản xuất hàng loạt tên lửa đạn đạo chiến lược RS-28 Sarmat. Ông nhấn mạnh tên lửa đã vượt qua các cuộc thử nghiệm cấp nhà nước và sẵn sàng đưa vào thực chiến.
Được nhiều phương tiện truyền thông gọi phổ biến bằng cái tên Satan II, RS-28 Sarmat là vũ khí được Nga ca ngợi là “tên lửa uy lực nhất thế giới”.
Tháng 10 năm ngoái, Tổng thống Vladimir Putin tiết lộ Nga đang sản xuất hàng loạt tên lửa đạn đạo chiến lược RS-28 Sarmat. Ảnh: The Strategist
RS-28 Sarmat là hệ thống tên lửa đạn đạo liên tục địa thế hệ mới của Nga do Trung tâm Tên lửa quốc gia Makeev thiết kế và Nhà máy chế tạo Krasnoyarsk sản xuất, nhằm thay thế tên lửa đạn đạo R-36M2 Voyevoda, vốn hoạt động trong Lực lượng tên lửa chiến lược Nga từ năm 1988.
Quá trình phát triển RS-28 Sarmat bắt đầu từ năm 2009 và được ra mắt vào tháng 8-2019 tại Diễn đàn kỹ thuật quân sự. Đến tháng 2-2021, Nga tiến hành sản xuất tên lửa đạn đạo này. Ngày 20-4-2022, Sarmat được phóng thử lần đầu tiên từ sân bay vũ trụ quân sự Plesetsk ở vùng Arkhangelsk, miền bắc nước Nga.
RS-28 Sarmat được phóng từ giếng phóng tương tự tên lửa R-36M2 Voyevoda. Tên lửa có thể được vận chuyển bằng đường sắt từ nơi sản xuất đến đơn vị quân đội hoặc đặt trên xe moóc bốn trục kéo bởi một xe tải hạng nặng.
Theo nhà sản xuất, RS-28 Sarmat có chiều dài 35,5m, đường kính 3m và có trọng lượng phóng là 208,1 tấn. Tầm bắn của tên lửa lên tới 18.000km, cho phép tấn công hầu hết mọi vị trí trên Trái đất với sai số chỉ khoảng 500m. Tên lửa chủ yếu được làm bằng hợp kim nhôm-magie bền hơn, nhẹ hơn và mang được tải trọng lớn. Vật liệu composite cũng được sử dụng trong hộp bảo quản và thùng phóng để làm giảm tín hiệu radar.
RS-28 Sarmat là tên lửa đạn đạo 3 giai đoạn sử dụng nhiên liệu lỏng, được trang bị đầu đạn hồi quyển tấn công đa mục tiêu độc lập (MIRV) và có thể mang lượng nhiên liệu nặng 178 tấn. Tên lửa này thể mang theo từ 10 đến 15 đầu đạn hạt nhân ước tính có sức công phá hàng chục megaton. Tên lửa cũng được trang bị nhiều loại mồi bẫy để đánh lừa hệ thống phòng thủ đối phương.
RS-28 Sarmat được trang bị động cơ RD-274 ở giai đoạn đầu và các đầu đạn trên Sarmat có thể lao tới mục tiêu ở vận tốc Mach 20,7 (khoảng 25.500 km/giờ), với quỹ đạo bay phức tạp, gần như không thể đánh chặn.
Thực hiện: QUỲNH OANH. Nguồn: Defense TV
QUỲNH OANH (Theo Army Recognition, Bulgarian Military)
(Dân trí) – USS Gerald R. Ford đang nắm giữ kỷ lục là tàu sân bay lớn nhất thế giới và đồng thời là chiến hạm có chi phí đóng cao chưa từng có, vào khoảng 13 tỷ USD.
USS Gerald R. Ford là tàu sân bay mới nhất và lớn nhất của Hải quân Mỹ. Nó cũng là tàu sân bay kích thước lớn nhất thế giới. Được đưa vào hoạt động vào tháng 7/2017, đây là tàu đầu tiên trong số các tàu sân bay lớp Ford của Mỹ, vốn có công nghệ tiên tiến hơn các tàu sân bay lớp Nimitz (Ảnh: Hải quân Mỹ).USS Gerald R. Ford cũng là chiến hạm đắt nhất thế giới với kinh phí đóng đã vượt mốc 13 tỷ USD. Con tàu dài 335m, có thể chứa 85 chiếc máy bay, chở hơn 4.500 người và có trọng lượng lên đến 90.000 tấn (Ảnh: BI).So với các tàu lớp Nimitz, tàu Ford có thiết kế thân tàu và ngăn chứa vũ khí được cải tiến, thang nâng vũ khí mới, nhiều không gian hơn trên sàn đáp, hệ thống phóng máy bay chạy bằng điện từ mới, công suất phát điện gấp 3 lần. Trong ảnh: Tàu Ford trong bài thử nghiệm khả năng chịu xung chấn năm 2021 (Ảnh: Quân đội Mỹ).Thang máy nâng vũ khí tiên tiến, kết nối với sàn đáp và cho phép thủy thủ di chuyển vũ khí từ hầm đạn lên máy bay (Ảnh: BI).Boong tàu rộng 78m và dài 332m (Ảnh: BI).Hệ thống điều khiển máy phóng tích hợp có thể nâng lên và hạ xuống. Các quân nhân trên tàu sẽ phóng máy bay phản lực sau khi nhận được thông báo rõ ràng từ những người có nhiệm vụ báo hiệu (Ảnh: BI).Ford được trang bị nhiều hệ thống tên lửa và phòng không tầm ngắn Sea Sparrow trên tàu (Ảnh: BI).Hệ thống tên lửa Rolling Airframe (Ảnh: BI).Khu vực kiểm soát bãi phóng và bãi đáp máy bay trên tàu Ford, nơi các sĩ quan quản lý và sắp xếp các phi cơ quân sự (Ảnh: BI).Khi những người nổi tiếng đến thăm Ford, trong đó có cựu Tổng thống Donald Trump, họ thường ký lên một tờ tiền Mỹ, sau đó để lại trên tàu làm kỷ niệm (Ảnh: BI).Khu vực điều hướng của tàu sân bay (Ảnh: BI).Bánh lái kỹ thuật số có chức năng điều khiển tốc độ và đánh lái. Ngoài ra, phía dưới cũng có một vô lăng thật để người điều khiển tàu có thể sử dụng khi cần (Ảnh: BI).
Với những tính năng kỹ-chiến thuật ưu thế, tổ hợp tên lửa phòng không-phòng thủ tên lửa S-500 Prometheus hiện tại không có sản phẩm tương ứng trên thế giới.
Thậm chí tổ hợp S-500 còn nhận được lời khen ngợi từ giới chuyên gia quân sự phương Tây và được cho là mở ra kỷ nguyên mới của vũ khí phòng không chống lại các phương tiện tấn công siêu vượt âm.
S-500 Prometheus được chuyên gia quân sự phương Tây thừa nhận ưu thế
Tạp chí The National Interest (NI) của Mỹ đánh giá Nga có mọi lý do để tự hào về hệ thống phòng không tiên tiến S-500 Prometheus đang sở hữu. Theo đó, S-500 được công nhận là vũ khí phòng không hàng đầu thế giới hiện nay. The National Interest cho rằng, hầu hết các chuyên gia quân sự thế giới đều coi hệ thống phòng không S-500 mới của Nga là giải pháp tiên tiến trong lĩnh vực phòng không.
Chuyên gia quân sự Maya Karlin của The National Interest cho biết, các loại đạn tên lửa phòng không được sử dụng trong cơ cấu S-500 là 40N6M và 77N6 có khả năng tấn công các mục tiêu tầm siêu xa từ 400 tới 600km, thậm chí tổ hợp vũ khí phòng không Nga có khả năng đánh chặn tên lửa siêu thanh như tên lửa Kinzhal có tốc độ lên tới Mach 10.
Một vụ phóng thử của tổ hợp S-500 Prometheus. Ảnh: Bộ Quốc phòng Nga
Hồi tháng 6-2024, các chuyên gia của Tạp chí Military Watch đã gọi S-500 Prometheus là hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới. Military Watch nhận xét các tổ hợp S-500 nằm trong biên chế Lực lượng vũ trang Nga tạo ra mối đe dọa đáng kể đối với các máy bay, nhất là các máy bay hỗ trợ quan trọng như máy bay tiếp liệu trên không hay máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy trên không.
Ấn phẩm này làm rõ rằng sự xuất hiện của trung đoàn S-500 đầu tiên với các hệ thống mới là một bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo khả năng phòng thủ của Nga trong không gian. Cùng quan điểm, kênh Defense TV tuyên bố rằng sự phát triển vũ khí này của Nga sẽ đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên phòng không mới.
Nga tiết lộ tính năng chính của hệ thống S-500 Prometheus
Cuối năm 2024, Quân đội Nga đưa vào trang bị trung đoàn S-500 đầu tiên và nhiều tính năng chiến đấu chính thức của vũ khí phòng không hiện đại này đã được xác định.
Mỗi xe phóng tự hành của S-500 chỉ mang theo 2 đạn tên lửa đánh chặn với khả năng đánh trúng mục tiêu ở khoảng cách tới 600km. Con số này gấp tới 3 lần so với các tổ hợp tên lửa đánh chặn THAAD và Patriot của Mỹ. Điểm khác biệt của S-500 là mang theo các đạn tên lửa cỡ lớn nên bị giới hạn số lượng tên lửa chiến đấu trên mỗi xe phóng. Điều này có thể được khắc phục thông qua việc tăng số lượng phương tiện phóng tự hành trong mỗi tổ hợp.
Mỗi trung đoàn S-500 bao gồm hai tổ hợp độc lập với 8 bệ phóng mỗi đơn vị. Theo đánh giá của chuyên gia quân sự Nga, Đại tá về hưu Anatoly Matviychuk, tổ hợp vũ khí phòng không mới không được phát triển để thay thế các dòng vũ khí cũ và tạo ra mạng lưới phòng không hợp nhất của Nga giữa cấp độ chiến thuật như S-300, S-400 và cấp độ chiến lược A-235 Nudol.
S-500 Prometheus đánh dấu kỷ nguyên mới của vũ khí phòng không. Ảnh: Lenta
Trước khi thành lập trung đoàn đầy đủ đầu tiên, các tổ hợp S-500 đã được triển khai nhiều lần trước đó cho mục đích thử nghiệm và tác chiến. Vào tháng 6-2024, có nhiều thông tin về việc S-500 được triển khai cho nhiệm vụ chiến đấu ở khu vực phía Nam nước Nga. Trong biên chế Quân đội Nga, trong khi tổ hợp S-400 có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung thì hệ thống S-500 tấn công mục tiêu siêu thanh, thậm chí là cả vũ khí siêu vượt âm. Sự kết hợp của những khả năng này với khả năng cơ động cao khiến S-500 trở nên hoàn toàn độc đáo.
Với tầm bắn rất xa, S-500 có thể tấn công các máy bay tiếp liệu trên không, máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy trên không, để làm giảm hiệu quả hoạt động của chúng. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu độc lập, S-500 còn đóng vai trò như hệ thống tác chiến chỉ huy trong các cụm phòng không khu vực của Nga cùng với các loại vũ khí phòng không khác.
Theo chuyên gia Igor Korotchenko, Tổng biên tập Tạp chí Quốc phòng Tổ quốc của Nga, trong trường hợp xảy ra xung đột, nhiệm vụ của S-500 có thể là vô hiệu hóa các yếu tố quan trọng nhất của đối phương về trinh sát không gian, liên lạc và giám sát trên không.
“Ngoài giải quyết các vấn đề phòng thủ tên lửa chiến lược, xây dựng lực lượng và phương tiện phòng thủ tên lửa theo hướng cơ động và khả năng vận chuyển các thành phần của tổ hợp đến bất kỳ khu vực nào của Liên bang Nga, S-500 có khả năng phá hủy các loại vũ khí chiến đấu trên không gian tương lai của các đối thủ tiềm năng ở quỹ đạo địa tĩnh Trái Đất”, chuyên gia Igor Korotchenko chia sẻ.
Có giá thành lên tới hơn 1 tỷ USD cho mỗi tổ hợp, mỗi tên lửa đánh chặn khoảng gần 5 triệu USD, thế nhưng hiệu quả thực tế của tổ hợp tên lửa phòng không – phòng thủ tên lửa PAC Patriot của Mỹ vẫn là dấu hỏi lớn với những màn thể hiện không mấy ấn tượng trong thực chiến.
Tổ hợp vũ khí phòng thủ tên lửa đắt giá
Thực tế, Patriot là sản phẩm từ thời Chiến tranh Lạnh do Tập đoàn Raytheon của Mỹ phát triển với mục tiêu tạo ra vũ khí phòng không đa dụng và là đối trọng với họ tên lửa phòng không S-300 của Liên Xô và Nga.
Với sự lớn mạnh và mở rộng của khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), tổ hợp tên lửa Patriot đã nhanh chóng trở thành một trong những vũ khí phòng không phổ biến của khối quân sự này và các quốc gia đồng minh. Nó đã trải qua nhiều lần nâng cấp lớn với những biến thể phổ biến như PAC-2 và PAC-3, trong đó biến thể PAC-3 nổi tiếng với khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung của đối phương. Patriot hiện là một thành phần trong hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (BMD) của Mỹ.
Patriot hiện là hệ thống phòng không – phòng thủ tên lửa hàng đầu của Mỹ và phương Tây.
Khác xa so với các tổ hợp tên lửa phòng không truyền thống, trong nhiệm vụ phòng thủ tên lửa, Patriot sử dụng nguyên tắc va chạm động năng thay vì nổ phá mảnh định hướng để phá hủy đầu đạn của đối phương. Đây là phương thức đánh chặn lợi dụng động năng mạnh mẽ của đầu đạn tên lửa để phá hủy tên lửa đạn đạo tấn công của đối phương ở pha tiếp cận.
Tuy nhiên, phương thức này không phải không có nhược điểm. Để đánh chặn thành công, tổ hợp Patriot cần phát hiện sớm các vụ phóng. Tên lửa tấn công của đối phương sẽ được hệ thống radar giám sát theo dõi chặt, tính toán quỹ đạo bay của đầu đạn và lựa chọn “thời điểm vàng” để phóng đạn tên lửa đánh chặn.
Thông thường, khi tên lửa đối phương bay trong khí quyển, ma sát với không khí khiến lớp vỏ ngoài có nhiệt độ rất cao và bộc lộ tín hiệu nhiệt, hồng ngoại mạnh mẽ. Chính vì thế các đạn tên lửa đánh chặn của tổ hợp Patriot được trang bị hệ thống cảm biến nhiệt cực nhạy để bám bắt và tấn công chính xác mục tiêu.
Vì những công nghệ phức tạp được trang bị nên các tổ hợp Patriot và đạn đánh chặn có giá rất đắt đỏ và thường được cung cấp theo các hợp đồng riêng biệt để giảm giá thành hợp đồng.
Chính vì sự phức tạp nên giá thành của mỗi tổ hợp tên lửa Patriot thường rất đắt đỏ.
Những chiến lệ đáng thất vọng
Dù có mức giá thành đắt đỏ và được quảng cáo là một trong những tổ hợp vũ khí phòng thủ tên lửa hiện đại nhất thế giới, nhưng trong thực tế chiến đấu, Patriot lại không thể hiện ấn tượng như quảng cáo.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, các tổ hợp Patriot của Israel, đồng minh thân cận của Mỹ tại Trung Đông đã mất dấu các đầu đạn tên lửa Scud của Iraq phóng tới. Nguyên nhân sau đó được chỉ ra là do đầu đạn tên lửa Iraq nguội đi quá nhanh trong khí quyển khiến hệ thống sục sạo quang – hồng ngoại của Patriot mất dấu mục tiêu. Sau vụ việc này, Israel đã tập trung vào phát triển tổ hợp tên lửa đánh chặn tên lửa nội địa Arrow, thay vì trang bị thêm “người yêu nước” từ Mỹ.
Cũng trong khoảng thời gian này, vào ngày 25-2-1991, các tổ hợp tên lửa Patriot đã thất bại trong việc bảo vệ căn cứ Dharan (Saudi Arabia) trước các đòn tấn công tên lửa từ Iraq. Hậu quả của vụ việc khiến 28 binh sĩ Mỹ thiệt mạng. Nguyên nhân của vụ đánh chặn thất bại được xác định là do tổ hợp Patriot dù đã phát hiện và khóa mục tiêu, nhưng do những sai số của hệ thống định vị đã khiến tên lửa đánh chặn bay lệch mục tiêu tới hơn 600m.
Một chiến lệ đáng chú ý khác là việc các tổ hợp Patriot PAC-3 phiên bản hiện đại nhất của Saudi Arabia năm 2017 đã không thể ngăn chặn được các tên lửa đạn đạo Burqan-2 (biến thể của tên lửa Scud) do lực lượng Houthis và Vệ binh cộng hòa Yemen tấn công sân bay quốc tế tại Thủ đô Al-Riyadh.
Khác xa với những lời quảng cáo, tổ hợp Patriot đã có nhiều chiến lệ đáng thất vọng và bị nghi ngờ về khả năng chiến đấu.
Điều tra sau vụ việc cho thấy, Patriot thực tế đã được kích hoạt khả năng đánh chặn, nhưng tên lửa phóng đi lại chỉ đánh trúng một mảnh vỡ của tên lửa Burqan-2. Cụ thể, đó là phần động cơ của tên lửa sau khi tách tầng. Đây vốn là phần phát nhiệt mạnh mẽ nhất và có thể đã khiến cảm biến quang-ảnh nhiệt trên tên lửa đánh chặn nhầm lẫn. Cùng với đó, những hình ảnh về đạn tên lửa đánh chặn PAC-3 khi vừa rời bệ phóng đã cắm đầu xuống đất nổ tung khiến danh tiếng của dòng vũ khí phòng thủ tên lửa của Mỹ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Bình luận về sự thất bại của Patriot tại Saudi Arabia, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo thời điểm đó đã phải thừa nhận, vũ khí phòng thủ không phải lúc nào cũng có hiệu quả đánh chặn như mong muốn.
Khi vũ khí siêu vượt âm xuất hiện và sự phổ biến của các thiết bị bay không người lái tấn công tự sát rẻ tiền, năng lực chiến đấu của tổ hợp Patriot một lần nữa đã bị nghi ngờ. Giới chuyên gia quân sự quốc tế đánh giá, trong cuộc chiến phi đối xứng, một vũ khí siêu vượt âm có giá vài triệu USD hoàn toàn đủ khả năng tiêu diệt hệ thống vũ khí phòng thủ tên lửa truyền thống có giá thành đắt gấp nhiều lần.
B-2 Spirit có lẽ là máy bay ném bom đắt đỏ nhất từng được chế tạo, có giá trị lên đến hơn 2 tỷ USD mỗi chiếc. Sản phẩm này do Tập đoàn Northrop Grumman phát triển, được coi là đỉnh cao của đầu tư và công nghệ hàng không quân sự Mỹ. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng của B-2 Spirit vẫn là một vấn đề gây tranh cãi.
Theo trang National Interest, B-2 Spirit là máy bay ném bom chiến lược tàng hình đầu tiên trên thế giới. Sự ra đời của nó đánh dấu cột mốc quan trọng trong chương trình hiện đại hóa máy bay ném bom của Mỹ.
Được mệnh danh “bóng ma bầu trời”, B-2 Spirit sở hữu công nghệ tàng hình tiên tiến và khả năng vận tải hạt nhân chiến lược, có thể xuyên thủng hệ thống phòng không dày đặc của đối phương để thực hiện các vụ tấn công hạt nhân bất ngờ. Đây là lý do loại máy bay này được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng trong bộ ba vũ khí hạt nhân chiến lược của Mỹ, gồm: Máy bay ném bom chiến lược, tàu ngầm tấn công hạt nhân và tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM).
Song, bên cạnh những ưu điểm, B-2 Spirit cũng có vô số nhược điểm. Một trong các nhược điểm của B-2 Spirit là lớp vỏ cực kỳ nhạy cảm khiến nó không thể hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Theo nguồn tin The New York Times, Văn phòng Kiểm toán Liên bang (GAO)-một cơ quan giám sát của Đồi Capitol-từng công bố báo cáo cho biết B-2 Spirit có thể bị hư hỏng do mưa, nhiệt độ và độ ẩm.
Báo cáo của GAO cho biết: “B-2 Spirit phải được che chắn hoặc chỉ tiếp xúc với những môi trường lành tính nhất – độ ẩm thấp, không có mưa, nhiệt độ vừa phải”. Báo cáo cho biết, lớp vỏ của máy bay không thể chịu được nhiệt độ, độ ẩm hoặc mưa. Lớp vỏ được làm bằng nhựa nhiệt dẻo và composites giúp máy bay ném bom có khả năng “tàng hình” trước radar của đối phương. Tuy nhiên, lớp vỏ nhạy cảm cũng đòi hỏi hầm chứa máy bay phải được kiểm soát về nhiệt độ và độ ẩm.
Bên cạnh đó, theo Thời báo Los Angeles, để máy bay duy trì được trạng thái “tàng hình” tối ưu, B-2 Spirit cần được đại tu 7 năm/lần, tốn trung bình 60 triệu USD và mất thời gian một năm. Chưa kể, cứ mỗi giờ bay trên không, máy bay ném bom sẽ cần tới 50-60 giờ trên mặt đất để bảo trì, bảo dưỡng.
Máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit của không quân Mỹ. Ảnh: National Interest
Ngoài ra, theo National Interest, khuyết điểm lớn nhất của những chiếc B-2 Spirit là việc thiếu khả năng liên lạc không dây. Dữ liệu nhiệm vụ hoặc thông tin như địa điểm bay, mục tiêu cần ném bom phải được nhập thủ công. Vì vậy, không quân Mỹ đang nỗ lực nâng cấp tính năng liên lạc không dây cho B-2 Spirit. Nhưng việc nâng cấp chỉ là giải pháp tạm thời, vì dòng máy bay thay thế B-2 Spirit là B-21 Raider hiện đang được phát triển và dự kiến sẽ gia nhập lực lượng không quân Mỹ trong thập kỷ tới. Không quân Mỹ cũng “đặt lịch” nghỉ hưu cho B-2 Spirit vào đầu thập niên 2030.
Khuyết điểm cuối cùng của dòng máy bay ném bom chiến lược này là giá thành quá cao. Để thấy rõ được điều này, trang National Interest đã so sánh mức giá của B-2 Spirit với các máy bay quân sự khác của Mỹ. F-22 Raptor, máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 sử dụng công nghệ tàng hình đầu tiên trên thế giới, có giá 350 triệu USD mỗi chiếc. C-17 Globemaster, máy bay vận tải quân sự hạng nặng có thể vận chuyển số lượng lớn thiết bị quân sự của Mỹ đi khắp thế giới, có giá 340 triệu USD mỗi chiếc. P-8 Poseidon có giá 290 triệu USD mỗi chiếc và chiến đấu cơ tàng hình F-35, tuyệt tác thế hệ thứ 5, có giá 115 triệu USD mỗi chiếc. Bản thân chiếc Air Force One, chuyên cơ phục vụ Tổng thống Mỹ, cũng chỉ dừng ở mức giá 660 triệu USD.
Như vậy, với hơn 2 tỷ USD bỏ ra cho một chiếc B-2 Spirit, Mỹ có thể tậu tới 3 chiếc Air Force One hoặc 6 chiếc F-22 Raptor hay khoảng 17 chiếc F-35. Cũng với số tiền này, Mỹ có thể trang trải khoảng 40% chi phí chế tạo một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Nimitz có sức chứa khoảng 5.000 thành viên thủy thủ đoàn và 100 máy bay.
Không thể phủ nhận B-2 Spirit được thiết kế để tăng cường khả năng răn đe hạt nhân của Washington. Nhưng hiệu quả sử dụng của B-2 Spirit so với chi phí vận hành quá lớn đã khiến nhiều chuyên gia đặt câu hỏi. Harrison Kass, cây viết chuyên về lĩnh vực quốc phòng và an ninh của National Interest cho rằng, với mức giá 2 tỷ USD/chiếc B-2 Spirit, hiệu quả sử dụng của oanh tạc cơ này chưa tương xứng với số chi phí bỏ ra. Chưa kể, so với các thế hệ máy bay quân sự hiện đại, B-2 có số lượng ít và ngày càng trở nên cũ kỹ, lỗi thời. Đây có lẽ cũng là lý do những chiếc B-2 Spirit sẽ sớm không còn xuất hiện trên bầu trời trong vài năm tới.
(Dân trí) – Máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 Su-57 của Nga đã được trang bị vũ khí siêu vượt âm, giúp nâng cao năng lực tác chiến của dòng tiêm kích tiên tiến này, theo truyền thông nhà nước Nga.
Tiêm kích Su-57 (Ảnh: Eurasian Times).
“Phù hợp với đơn đặt hàng quốc phòng quốc gia, Lực lượng Hàng không-Vũ trụ mỗi năm đều tiếp nhận các hệ thống vũ khí tiên tiến và hiện đại hóa. Tốc độ bàn giao máy bay Su-57 thế hệ thứ 5 đang gia tăng, cùng với các hệ thống tấn công hàng không hiện đại và vũ khí siêu vượt âm”, Trung tướng Alexander Maksimtsev, Tham mưu trưởng kiêm Phó Tư lệnh thứ nhất của Lực lượng Hàng không-Vũ trụ Nga (VKS), nói với hãng Tass.
Vị tướng này không nói rõ liệu Su-57 đã thực sự được trang bị vũ khí siêu vượt âm hay VKS vẫn đang trong quá trình tích hợp. Ông cũng không nêu cụ thể tên của loại vũ khí siêu vượt âm đang được chuyển giao.
Tuy nhiên, khi ông nhấn mạnh việc gia tăng số lượng Su-57 bàn giao, điều đó gợi ý rằng lô máy bay mới có thể đã được tích hợp vũ khí siêu vượt âm, theo nhận định của Eurasian Times.
Diễn biến này mang ý nghĩa đáng kể nhưng không hoàn toàn gây bất ngờ, đặc biệt là trong bối cảnh Nga đã trang bị tên lửa siêu vượt âm Kinzhal cho dòng tiêm kích MiG-31K.
Hiện tại, Kinzhal là loại vũ khí siêu vượt âm duy nhất được biết đến của Nga có khả năng phóng từ máy bay. Tuy chưa có xác nhận chính thức rằng Kinzhal đã được chứng nhận sử dụng trên Su-57, nhưng việc tích hợp về mặt kỹ thuật là hoàn toàn khả thi.
Ngoài ra, một biến thể nâng cấp của tên lửa không đối không R-37M, có thể đạt tốc độ siêu vượt âm Mach 6 với tầm bắn hơn 300km, cũng được nhắc đến như một ứng viên tiềm năng cho vũ khí siêu vượt âm tích hợp trên Su-57.
Một số nguồn tin khác cho biết Nga đã phát triển một loại tên lửa không đối đất mới trong thời gian qua, với kế hoạch trang bị nó cho Su-57. Tuy nhiên, mọi thông tin liên quan đến loại tên lửa mới này vẫn được giữ kín.
Ngoài ra, cũng có một số thông tin rằng Nga đã phát triển một biến thể của tên lửa Zircon phóng từ máy bay với thiết kế nhỏ gọn phù hợp để chứa trong khoang vũ khí bên trong của Su-57. Điều này nhằm duy trì khả năng tàng hình tuyệt đối của Su-57.
Kế hoạch trang bị vũ khí siêu vượt âm cho Su-57, dòng tiêm kích chiến thuật hiện đại nhất của Nga, đã được đặt ra từ lâu.
Theo các báo cáo, chiếc Su-57 sản xuất hàng loạt đầu tiên được chuyển giao cho trung tâm thử nghiệm bay Akhtubinsk vào tháng 11/2020 đã được chỉ định để thử nghiệm các loại vũ khí siêu vượt âm.
Tháng 12 cùng năm, Tập đoàn Máy bay Thống nhất (UAC) cũng tuyên bố Su-57 sẽ được tích hợp các công nghệ thế hệ thứ 6, bao gồm cả vũ khí siêu vượt âm.
Việc tích hợp tên lửa siêu vượt âm sẽ tăng cường đáng kể hỏa lực và năng lực tác chiến tổng thể của dòng tiêm kích tàng hình này.
“Việc tích hợp Zircon lên Su-57, dòng tiêm kích kết hợp tầm bắn cực xa với khả năng tàng hình tiên tiến, có thể làm gia tăng đáng kể mối đe dọa đối với các tàu chiến của đối phương, đặc biệt khi số lượng Su-57 dự kiến tăng lên hàng trăm chiếc vào cuối thập niên 2030”, theo báo cáo của TASS.
“Cũng có khả năng lớn rằng lớp tên lửa siêu vượt âm phóng từ máy bay được phát triển cho Su-57 cũng sẽ được trang bị rộng rãi hơn cho các dòng tiêm kích khác của Nga, nhất là khi hiện tại Su-57 mới chỉ được biên chế trong một trung đoàn duy nhất”, hãng tin nhận định.
Zircon là tên lửa hành trình siêu vượt âm sử dụng động cơ phản lực dòng thẳng đốt siêu âm, vận hành bằng cách nén luồng không khí ở tốc độ cao khi tên lửa bay về phía trước.
Điều này khác biệt với các loại vũ khí siêu vượt âm khác như Avangard của Nga, vốn sử dụng phương tiện lướt siêu vượt âm (HGV).
Zircon được thiết kế để phá hủy các mục tiêu giá trị cao, bao gồm tàu chiến mặt nước như tàu sân bay, tàu khu trục, cũng như các cơ sở hạ tầng mặt đất. Nó có tốc độ và khả năng cơ động cao để tránh các hệ thống phòng không.
Tên lửa có thể tấn công cả mục tiêu trên biển và mặt đất với tầm bắn trên 1.000km, đạt tốc độ lên tới Mach 8 và được cho là mang đầu đạn nặng từ 300 đến 400kg.
Zircon có thể được dẫn đường bằng hệ thống dẫn đường quán tính, định vị vệ tinh (GLONASS), và sử dụng radar chủ động để dẫn đường giai đoạn cuối. Nó cũng được cho là có khả năng chống gây nhiễu và cập nhật mục tiêu giữa hành trình để tăng độ chính xác, cùng khả năng cơ động để né tránh hệ thống đánh chặn.